Suốt chiều dài tôi đi, từ dải miền Trung thân yêu đến miền núi phía Bắc của Tổ quốc, rồi từ miền núi phía Bắc đến miền Nam xa xôi, không nơi nào tôi nhớ bằng núi rừng Quảng Trị. Nơi tôi sinh ra và lớn lên. Cả những tháng ngày, những con người tôi yêu thương cũng từ đó. Hay nói đúng hơn, tôi hàm ơn núi đồi, những ngày khốn khó đã cưu mang, nuôi lớn tôi gần nửa thế kỷ.
Ôm trọn trong trái tim tôi là những ngọn đồi. Những ngọn đồi mà người dân quê tôi chặt những bụi sim, phát từng bụi lau để trồng sắn khoai. Những ngày ở nông thôn tôi chứng kiến những đổi thay rất chậm, đủ cho tôi thuộc thời vụ của cây trồng, thuộc mùa của thiên nhiên, quen với những gian khó và sự vươn lên trong nỗi nhọc nhằn.
Bởi thế mà hoa rừng, rau dại trở thành phần đời không thể thiếu. Những cây con bé dại tràn trề sức sống và bám trụ dai dẳng qua ngày hạn hán cũng như bão giông của mảnh đất Quảng Trị gió Lào cát trắng mỗi năm chỉ có hai mùa, mùa mưa và mùa khô.
Những đám ruộng khai hoang vừa phát. Từ những ngày nắng gió, cây khô, lá cong như bàn tay mạ gầy. Những chiếc lá có màu vàng phù sa lặng lẽ nằm kề nhau, khi mồi lửa bật lên chúng hóa vào đất tạo nguồn sinh khí mới cho cây và cỏ dại.
Loại hoa tàu bay, danh pháp là Crassocephalum creppidioides mà trong Đông y thường gọi là kim thất, mọc lên từ những tàn tro. Ở đâu có tàn tro, ở đó có tàu bay. Đây là sự sống được tiếp nối ở đỉnh đồi, nơi không có phù sa sông, cây lấy dinh dưỡng từ đất, từ tro và từ khí trời, sương núi.
Ở bờ tre, gốc rạ, bến sông, bãi cát hay bất cứ đâu có chút dinh dưỡng là tàu bay có thể mọc lên. Nhưng chúng vẫn ưa nhất là lớp tro trên lổn nhổn đất đá, củi mục. Từ chùm lông mịn màu trắng tinh khôi chừng một centimet. Có lúc trời nắng nhìn lấp lánh như viên kim cương mang chiếc hạt nhọn bé xíu bằng đầu que tăm bay giữa không trung rồi đáp xuống ở hòn đất khi ngưng gió, hoặc khi lớp lông kia dịu lại bởi sương mai, bởi mưa rơi. Hành trình sinh sản bằng cách di trú của giống tàu bay nhẹ nhàng êm ái như một bản nhạc trên đồng cỏ xanh bao la, trên đồi núi ngút ngàn mà nắng gió, mây trời tạo nên bức tranh đẹp giữa không trung khi có hàng ngàn hạt nhỏ bé xinh cuốn theo chiều gió bay đi giữa đất trời.
Từ những ngày thu, đôi mắt trẻ thơ trong veo cứ ngước nhìn lên khoảng trời xanh thấy hoa tàu bay trôi đi trong gió. Vượt qua núi đồi, có khi theo gió băng qua khe suối, hoa tàu bay thực hành một cuộc mưu sinh cho mình và cho giống loài như thân phận ai trong thời dâu bể nhưng ở bất kì đâu cũng nảy mầm sinh sôi.
Có đứa trẻ gửi ước mơ vào đó để hoa tàu bay mang đi. Ước mơ về biển xanh, về núi rừng, lang thang khắp nơi để làm những điều mình thích. Đứa trẻ ấy là tôi, từ cánh cửa, ra đồng làng, ven theo con đường đầy tre xanh đến núi đồi đầy hoa bay. Đứa trẻ ấy lớn lên từ làng, thuộc từng con đường nhỏ, từng dấu chân chim, liếp cày của cha và đôi mắt đỏ hoe của mạ khi phải lúi húi thổi cơm, khi luộc rau tàu bay nhiều hơn cơm và nhìn con thơ thắt thẻo.
Hơn ba mươi năm, sau ngày đôi mắt ngước nhìn trời với những ước ao, tôi gặp rất nhiều người, ở những nơi tôi đi qua. Họ giữ nguyên ký ức về những ngày sống cùng hoa tàu bay ở núi đồi hoang dại. Bà Hà Thị Học, người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số thôn Khe Hà, xã Hướng Hiệp (huyện ĐaKrông, Quảng Trị) người lưu giữ ký ức thơm tho về loài tàu bay hơn nửa thế kỷ qua. Bà Học hoài niệm rằng, từ quê hương Vĩnh Khê (huyện Vĩnh Linh, Quảng Trị) đến Hướng Hiệp gần trăm cây số, hơn nửa thế kỷ ở núi đồi nào cũng đầy cây tàu bay, nó đi theo tuổi thơ cơ cực, tàu bay làm rau ăn thường ngày của đồng bào Vân Kiều cũng như những gia đình sống ở vùng trung du đồi núi.
Bà Học kể những năm chống Mỹ bà đi hái tàu bay cho bộ đội làm rau xanh ăn bữa chính, lớn lên khi tham gia phong trào kháng chiến ở địa phương, chính những người ngày xưa hái rau cho bộ đội nay vừa đánh giặc vừa hái tàu bay để làm rau cải thiện bữa ăn cho chính mình và đồng đội. Nửa thế kỷ trôi qua, mảnh đạn nhặt lên, hố bom được san lấp, quê hương sạch bóng quân thù. Hoa tàu bay vẫn xanh tươi như ngày trước và vẫn còn rất nhiều người dân lấy tàu bay làm rau xanh, vừa ăn rau vừa nhớ đến những ngày khó khăn của cuộc đời.
Cũng bước ra từ những khó khăn khi sinh ra và lớn lên từ vùng nông thôn, mạ cũng chịu rất nhiều nhọc nhằn. Nhưng từ đó mạ cũng hóa thân thành tàu bay để sống, hy sinh và quật cường. Trong đất đai khó khăn thì con người phải biết chắt chiu từng chút một. Ngày xưa mạ hay ngâm nga câu “đói lòng nhớ đọt tàu bay / hoa bay trăm nẻo đắng cay phận người”. Cũng không biết hai câu ca từ đâu nhưng khi khói lam chiều thoát lên từ bếp rồi chui qua mái tranh mạ hay hát câu đó. Người thập niên 1980 trở về trước ít nhiều được nếm vị tàu bay, loài rau ăn được khi cây còn sống chưa qua chế biến.
Chúng tôi lớn lên bằng rau tàu bay và một số rau dại khác quanh vườn đồi. Vùng đất Cam Tuyền (huyện Cam Lộ) với khu vực Đồi Cau, Đồi Tròn, Đồi Đen… ở đâu cũng có tàu bay mọc. Cây cao bằng gang tay là có thể lấy về làm rau xanh. Người dân quê tôi ngắt rau tàu bay chứ không nhổ. Bởi từ cái gốc đó, tàu bay sẽ sinh ra rất nhiều mầm xanh, vài tuần sau là có thể thu hái được. Cũng có vùng đất sau làng tôi (thôn Đâu Bình, xã Cam Tuyền) có tên gọi rất chân phương là Đồi Tàu. Một quả đồi chừng hơn 10 hecta, cao chừng hơn 300 mét nhưng lên tới đỉnh có thể nhìn thấy dòng sông Hiếu mượt mà trôi những ngày hè, cũng có thể thấy những cánh đồng làng các thôn Ba Thung, Bắc Bình, An Thái. Và điều tuyệt vời nhất là có thể nhìn thấy biển ảo ảnh sau những đồi cát xa mờ. Đồi Tàu cũng là nơi có rất nhiều rau tàu bay, cây mọc dọc rảnh nước trôi, cây bám vào đá, cây nấp mình trong cát. Sau những đợt mưa xuân tàu bay lại trỗi dậy, cây có mình cong cong hướng theo phía mặt trời mọc.
Mạ hay bất cứ người phụ nữ Việt Nam nào đi theo kháng chiến, góp gạo nuôi quân đều có những ngày tháng gắn bó với rau tàu bay. Mà ngay không theo kháng chiến, thì đói nghèo càng khăng khít hơn với rau dại quanh đồi. Trong chiến tranh, bộ đội sử dụng rau tàu bay làm thực phẩm bởi hai lý do: Thứ nhất là để cứu đói trong những lúc thiếu thốn. Thứ hai, chiết xuất hydroethanolic từ lá rau tàu bay có tác dụng chống oxy hóa, kháng viêm, tăng sinh nguyên bào sợi, thu nhỏ vết thương và kích thích tăng sinh mạch máu, giúp vết thương mau lành.
Sứ mệnh của tàu bay với con người cao cả là thế, nhưng trong thơ ca cũng rất hiếm hoi với những sáng tác lấy tên nguyên bản của nó là tàu bay. Nhà thơ Trần Đăng Khoa trong bài thơ “Về làng” đã viết: Anh đã sống những tháng năm hào hứng / Ăn rau tàu bay, hát vỗ nhịp vào báng súng. Hay nhà thơ Văn Thảo Nguyên trong bài “Đêm tháng năm” có câu: Cơm gạo mốc mà tưởng cơm nếp mới / Rau “tàu bay” không muối cũng thành canh.
Tôi thích hai câu sau đây trong bài hát “Quê nhà” của nhạc sĩ Trần Tiến: À ơi hoa bay lên trời cây chi ở lại / À ơi hoa cải lên trời, rau răm ở lại chịu lời đắng cay. Hoa cải ở đây không phải là cải thông dụng chúng ta thường trồng, thường dùng vì cải thuộc giống hạt nhẵn, muốn trồng cho vụ sau phải thu hoạch, làm đất, bón phân. Chỉ có giống cải được gọi với cái tên cải dại, một tên gọi khác của rau tàu bay mới làm được điều đó, ấy là bay lên trời...
Bài in Cửa Việt số Chuyên đề 17+18